Đăng bài - Hoặc quảng cáo vui lòng liên hệ TVN Group - hệ thống website chất lượng cao:

0972434351tvnseos@gmail.comZalo

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Nhà Nguyên

0

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi truyền lại trong hai lần đi sứ nhà Nguyên tuy ít ỏi cũng đủ để cho hậu thế nhiều bài học về tài ứng đối trôi chảy của ông.

Tại cửa ải Pha Lũy (nay là ải Nam Quan)

Sách “Đại Việt sử kí toàn thư” chép: “Mậu Thân (1308) sứ Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang báo tin Vũ Tông lên ngôi. Vua sai Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên”. Đã báo tin và mong nước Đại Việt sang chia vui về sự lên ngôi của vị tân hoàng đế mà đến cửa khẩu quân Nguyên còn đóng cửa không cho đi. Họ còn thử tài vị chánh sứ Mạc Đĩnh Chi bằng một câu đối hiểm hóc:

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Nhà Nguyên

Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”. Nghĩa là: Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua.

Chỉ trong một vế đối 11 chữ mà sử dụng từ trùng lặp tới 4 chữ “quan” và 3 chữ “quá”.

Chẳng dè, Chánh sứ Mạc Đĩnh Chi đối lại dễ dàng bằng một câu rất tự nhiên, như một câu hỏi, như một câu thách thức tế nhị:

Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh Tiên sinh tiên đối”. Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời Tiên sinh đối trước.

Trong câu đối này cũng sử dụng 4 từ “đối” và 3 chữ “tiên” trùng lặp. Viên quan coi cửa khẩu tâm phục, liền sai người mở cổng cho vào.

Buổi tiếp kiến đầu tiên

Khi đến Yên Kinh, thấy Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, nên người Nguyên tỏ ý khinh khi.  đang dự tiệc thiết đãi thì bất chợt, vua nhà Nguyên ra vế đối thử tài Mạc Đĩnh Chi:

Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố”. Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng.

Vế đối ví von từ hiện tượng tự nhiên nhưng ẩn ý rõ ràng mang tính đe dọa của nước lớn rằng thiên triều (mặt trời) sẽ đốt cháy nước nhỏ.

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Nhà Nguyên

Mạc Đĩnh Chi bình thản ứng khẩu: “Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô”. Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rụng mặt trời.

Vế đối cũng từ hiện tượng tự nhiên này ý tứ cứng cỏi chẳng kiêng dè gì gửi đi thông điệp: nước nhỏ cũng có thể bắn rụng nước lớn. Quả là một câu đối đạt tới độ kinh điển.

Đặt trong bối cảnh hai quốc gia vừa trải qua ba cuộc chiến tàn khốc, mối bang giao còn đang rất mong manh thì mới thấy sự mềm dẻo nhưng cứng rắn trong đường lối ngoại giao của Mạc Đĩnh Chi tài tình đến đâu. Trước câu đối “xấc” này, quan quân nhà Nguyên bình luận: Hậu duệ của người này sau tất tự lập làm vua (quả nhiên sau ứng với cháu 7 đời Mạc Đăng Dung).

Nhân đây cũng nói về việc đi sứ, cũng đối đáp lại vế đối “kẻ cả” của nước lớn mà sứ giả Đại Việt tuy thể hiện được sự cứng cỏi của mình, giữ được quốc thể nhưng lại không bảo toàn được tính mạng. Đó là việc vua nhà Minh ra vế đối cho chánh sứ Giang Văn Minh:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”. Nghĩa là: Cột đồng đến nay rêu đã xanh.

Vế đối nhắc tới việc Mã Viện đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng rồi cho chôn cột đồng, nguyền rằng: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” nghĩa là: Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong.

Chánh sứ Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”.

Nghĩa là: Sông Bạch Đằng từ xưa đã đỏ do máu. Vế đối lại nhắc việc người phương Bắc đã ba lần đại bại trên sông Bạch Đằng.

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Nhà Nguyên

Cũng trong buổi tiếp kiến đầu tiên

Thừa tướng nhà Nguyên lại ra vế đối: “An khử nữ, dĩ thỉ vi gia”.

Nghĩa là: Chữ an bỏ chữ nữ đi, thêm chữ thỉ vào thành chữ gia (nhà). Vế đối hàm ý thâm hiểm có ý muốn nhà Nguyên muốn xóa bỏ nước Đại Việt nhập thành châu huyện của họ.

Mạc Đĩnh Chi lập tức đối lại: “Tù xuất nhân, lập vương thành quốc”.

Nghĩa là: Chữ tù bỏ chữ nhân đi, thêm chữ vương vào thành chữ quốc (nước). Ý của Mạc Đĩnh Chi khẳng định người nước ta nhất định xóa bỏ sự tù hãm để lập nên một nước tự chủ.

Như vậy, việc “chơi đối” với Chánh sứ Mạc Đĩnh Chi của vua quan nhà Nguyên đâu chỉ để thử tài mà còn dụng ý gây khó và kiếm cớ đe nẹt, trách phạt.

Văn tế công chúa

Sử sách còn ghi lại một tình huống hiểm hóc mà Mạc Đĩnh Chi phải đối diện. Đó là dịp công chúa của vua Nguyên yểu mệnh. Quan nhà Nguyên thông báo Chánh sứ Mạc Đĩnh Chi sẽ đọc bài ai điếu. Rồi đưa cho Mạc Đĩnh Chi bản điếu viết sẵn. Ai ngờ, khi bước vào vị trí, mở bản điếu văn ra thì chỉ thấy có một chữ “Nhất”. Trấn tĩnh, Mạc Đĩnh Chi sụt sùi, cảm thán:

“Thanh thiên nhất đóa vân;

Hồng lô nhất điểm tuyết;

Thượng uyển nhất chi hoa;

Dao trì nhất phiến nguyệt;Y!

Vân tán, tuyết tan, hoa tàn, nguyệt khuyết!”.

Nghĩa là: Một đóa mây giữa trời xanh; Một giọt tuyết trong lò lửa; Một cành hoa giữa vườn thượng uyển; Một vầng trăng trên mặt nước hồ; Ôi! mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết. Thật là tuyệt cú.

Ngoài đối đáp, sự ứng biến của Mạc Đĩnh Chi cũng thật tài tình, sắc sảo, như đùa bỡn mà quan lại nhà Nguyên không làm sao trách được.

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Nhà Nguyên

Bức tranh chim sẻ ở phủ thừa tướng

Đó là lần đến thăm phủ Thừa tướng nhà Nguyên. Giữa phủ đường lộng lẫy có treo một bức gấm thêu hình con chim sẻ đậu trên cành trúc. Mạc Đĩnh Chi tưởng là chim thật liền với tay bắt. Thừa tướng và các quan quân nhà Nguyên đều phá lên cười, châm chọc. Bất giác, Mạc Đĩnh Chi lấy bức họa xuống và xé rách. Thừa tướng nổi giận, nhưng chưa kịp trách phạt thì Mạc Đĩnh Chi đã ôn tồn nói:

“Cổ nhân có vẽ mai và tước, chưa thấy vẽ trúc và tước (sẻ). Trúc là quân tử, tước là tiểu nhân, bức trướng thêu này là đưa tiểu nhân đặt lên trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy nên tôi vì Thánh triều mà trừ mối tệ ấy đi.”

Bài minh cái quạt

Khi vào chầu vua Nguyên, có người ngoại quốc dâng cái quạt, ông phụng mệnh làm bài minh vào cái quạt. Sứ thần nước Cao Ly làm xong trước, có 4 câu, 16 chữ, Đĩnh Chi trông thế bút viết, biết được bài của sứ thần Cao Ly rồi, liền theo ý mà làm phiên câu văn đi, lại dẫn thêm 3 câu ở trong truyện làm câu kết, được khen thưởng hơn, đủ biết ông có tài và nhanh lắm, người Nguyên càng thêm thán phục. Bài minh của sứ Cao Ly:

Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công.
Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề

Bài của Đĩnh Chi:

Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho;
Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu.
Y, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thi phù

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Nhà Nguyên

Câu đố chết người

Khi Sứ bộ bái biệt vua Nguyên để về nước, thì họ ra câu đố hiểm hóc:

Có một chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và cha mình (quân, sư, phụ) bơi đến giữa sông chẳng may gặp sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai?

Vào thời kỳ đó, trả lời sai sẽ bị tội phanh thây, chém đầu hoặc lưu giữ lại, dẫn đến nước Việt mất nhân tài. Nhưng ông đã trả lời:

Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải vội vã nhảy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần gặp ai trước thì thần cứu người ấy trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay cha mình.

Câu trả lời chuẩn, nên ông không bị phiền phức và được ra về.

Cũng vì đối đáp, ứng biến trôi chảy, tôn trọng nước lớn nhưng không hạ thấp vị thế nước mình, lại giảo hoạt vượt trội các sứ thần các nước như Cao Ly (Triều Tiên, Hàn Quốc) nên Mạc Đĩnh Chi được vua nhà Nguyên phong “Lưỡng quốc trạng nguyên”.

Và cũng chính trong chuyến đi sứ nhà Nguyên, Mạc Đĩnh Chi đã kết thân với sứ thần Cao Ly. Truyện kể rằng: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đi sứ, Mạc Đĩnh Chi nhận lời mời đã sang Cao Ly. Tại đây, ông được sứ thần mai mối cho người cháu gái để làm thiếp. Sau bốn tháng, người thiếp ấy theo Trạng Mạc về Trung Quốc, 5 năm sau thì bà về nước cùng với hai người con, một trai một gái. Mười năm sau, Trạng Mạc lại sang Cao Ly một lần nữa. Lần này, ông ở lại Cao Ly sáu tháng, đi du lãm khắp Cao Ly. Người Cao Ly rất hâm mộ ông, bởi ai cũng biết ông là bậc thông minh xuất chúng. Hết sáu tháng, ông trở về Trung Quốc rồi về Việt Nam, khi ấy người thiếp có mang đã ba tháng, sau sinh một bé trai.

Ngoài tài ngoại giao, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi còn là nhà kiến trúc sư tài ba. Sử sách chép năm 1313, Tả bộc xạ Mạc Đĩnh Chi (thượng thư) đích thân chỉ đạo trông coi việc đại trùng tu chùa Dâu. Hiện nay, tại chùa Dâu vẫn còn một ban thờ Mạc Đĩnh Chi.

Những câu chuyện truyền kì về Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ Nhà Nguyên

Tài năng ngoại giao, thơ phú, kiến trúc đã đem đến cho Mạc Đĩnh Chi danh thơm truyền đời. Và hẳn nơi suối vàng ông cũng khó tưởng tượng được người cháu 7 đời Mạc Đăng Dung khi lên ngôi đã truy tôn hiệu ông là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế.

Vui lòng đánh giá bài viết
Share.

Comments are closed.